Trả lời nội dung này, Luật sư Phan Thụy Khanh, Phó trưởng Văn phòng Luật sư Phong & Partners cho biết, thực tiễn cho thấy, các vụ ly hôn có tranh chấp tài sản ngày càng trở nên phổ biến tại Việt Nam, dẫn đến quá trình giải quyết kéo dài và gây ảnh hưởng không nhỏ đến các bên.
Do đó, các cặp đôi hiện nay có xu hướng thận trọng hơn về vấn đề tài sản trước khi bước vào cuộc sống hôn nhân. Với suy nghĩ “mất lòng trước - được lòng sau”, họ chủ động làm rõ và thống nhất về quan hệ tài sản giữa các bên trước khi đăng ký kết hôn, hay còn được gọi là thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng, nhằm hạn chế mâu thuẫn và bảo vệ quyền lợi cá nhân. Vậy pháp luật có quy định thế nào về vấn đề này?
Thứ nhất, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng là gì?
Theo khoản 1 Điều 28 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, bên cạnh chế độ tài sản theo luật định, vợ chồng còn có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận. Quyền này cho phép vợ chồng được tự thống nhất về cách thức xác lập, cũng như thực hiện quyền và nghĩa vụ với khối tài sản của cả hai trong thời kỳ hôn nhân, miễn là không vi phạm quy định của pháp luật. Quy định này thể hiện nguyên tắc hôn nhân tự nguyện, tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên khi xác lập quan hệ hôn nhân.
Theo quy định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, một thỏa thuận về chế độ tài sản có thể bao gồm các nội dung cơ bản sau:
- Tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng;
- Giữa vợ và chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
- Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó;
- Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Các vấn đề chưa được vợ chồng thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ ràng thì sẽ được giải quyết theo quy định tại Điều 29, 30, 31 và 32 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014 và các quy định tương ứng của chế độ tài sản theo luật định.
Như vậy, chị Lan và chồng sắp cưới có quyền ký thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng và thỏa thuận này là hoàn toàn hợp pháp nếu nội dung và hình thức của thỏa thuận đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật như nêu dưới đây.
Thứ hai, điều kiện có hiệu lực của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng
Về nguyên tắc, thỏa thuận xác lập chế độ tài sản giữa vợ và chồng là một loại giao dịch dân sự. Do đó, thỏa thuận này cần phải tuân thủ các điều kiện để phát sinh hiệu lực theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật hôn nhân gia đình.
Cụ thể, Điều 117 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
“Điều 117. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định".
Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định:
“Điều 47. Thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng
Trong trường hợp hai bên kết hôn lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì thỏa thuận này phải được lập trước khi kết hôn, bằng hình thức văn bản có công chứng hoặc chứng thực. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận được xác lập kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Điều 50. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị vô hiệu
1. Thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng bị Tòa án tuyên bố vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Không tuân thủ điều kiện có hiệu lực của giao dịch được quy định tại Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan;
b) Vi phạm một trong các quy định tại các điều 29, 30, 31 và 32 của Luật này;
c) Nội dung của thỏa thuận vi phạm nghiêm trọng quyền được cấp dưỡng, quyền được thừa kế và quyền, lợi ích hợp pháp khác của cha, mẹ, con và thành viên khác của gia đình.
2. Tòa án nhân dân tối cao chủ trì phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp hướng dẫn khoản 1 Điều này".
Như vậy, thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng phải được lập trước khi đăng ký kết hôn, tuân thủ điều kiện về chủ thể ký kết, mục đích và nội dung không vi phạm pháp luật, đã được công chứng hoặc chứng thực và không thuộc các trường hợp bị vô hiệu theo quy định. Khi đó, thỏa thuận này sẽ có hiệu lực và thời điểm phát sinh hiệu lực là kể từ ngày đăng ký kết hôn.
Tuy nhiên, cần lưu ý thêm là hiện nay, việc công chứng, chứng thực thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng vẫn còn tồn tại sự không đồng bộ giữa các văn phòng công chứng, đặc biệt khi thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có bao gồm cả tài sản là bất động sản. Nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ sự thiếu rõ ràng trong quy định của pháp luật hiện hành, dẫn đến việc mỗi tổ chức hành nghề công chứng có thể áp dụng các cách hiểu và cách xử lý khác nhau.
Cụ thể, Luật Công chứng 2014 quy định:
“Điều 42. Phạm vi công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản
Công chứng viên của tổ chức hành nghề công chứng chỉ được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở, trừ trường hợp công chứng di chúc, văn bản từ chối nhận di sản là bất động sản và văn bản ủy quyền liên quan đến việc thực hiện các quyền đối với bất động sản".
Quy định này đang có hai cách hiểu cơ bản như sau:
- Cách hiểu thứ nhất, ngoài các loại văn bản là di chúc, từ chối nhận di sản và ủy quyền thì các loại hợp đồng, giao dịch khác về bất động sản (bao gồm cả văn bản thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng có bao gồm tài sản là bất động sản) đều phải áp dụng công chứng theo địa hạt. Theo cách hiểu này thì việc công chứng thỏa thuận nói trên phải do tổ chức hành nghề công chứng có trụ sở tại nơi có bất động sản thực hiện.
- Cách hiểu thứ hai, chỉ những hợp đồng, giao dịch có đối tượng là bất động sản thì mới áp dụng quy định công chứng theo địa hạt, ví dụ như hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cho thuê/mượn bất động sản… Còn đối với thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng về bất động sản, đối tượng của giao dịch này không phải là bất động sản mà là mối quan hệ tài sản giữa vợ và chồng, do đó, không áp dụng công chứng theo địa hạt. Theo cách hiểu này thì việc công chứng thỏa thuận nói trên có thể được thực hiện bởi bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào.
Do đó, ở thời điển hiện tại, sự thiếu đồng bộ này sẽ có thể gây ra những khó khăn nhất định cho chị Lan khi thực hiện việc công chứng thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng nếu thỏa thuận này có bao gồm tài sản là bất động sản ở nhiều địa phương khác nhau. Bởi lẽ, thỏa thuận này có để được chấp nhận hoặc từ chối công chứng, chứng thực, tùy theo quan điểm của công chứng viên tại từng tổ chức hành nghề công chứng.
Tuy nhiên, nhằm xử lý bất cập nói trên, Điều 44 Luật Công chứng 2024 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2025) đã liệt kê rõ thỏa thuận xác lập chế độ tài sản của vợ chồng về bất động sản là trường hợp không áp dụng công chứng theo địa hạt. Đồng nghĩa với việc, kể từ ngày 01/7/2025, chị Lan có thể đến bất kỳ tổ chức hành nghề công chứng nào để thực hiện việc công chứng thỏa thuận này.
Thứ ba, có thể thay đổi nội dung thỏa thuận sau khi kết hôn không?
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận sửa đổi, bổ sung một phần hoặc toàn bộ nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng đã được xác lập trước đó. Thỏa thuận sửa đổi, bổ sung này phải được lập thành văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật.
Hiệu lực của thỏa thuận sửa đổi, bổ sung nội dung của chế độ tài sản của vợ chồng sẽ phát sinh kể từ ngày được công chứng hoặc chứng thực. Nếu các bên không có thỏa thuận khác thì các quyền, nghĩa vụ về tài sản đã phát sinh trước thời điểm việc sửa đổi, bổ sung chế độ tài sản của vợ chồng có hiệu lực vẫn sẽ có giá trị pháp lý.
Bên cạnh đó, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người thứ ba có liên quan, pháp luật còn quy định vợ chồng có nghĩa vụ thông báo cho họ về việc xác lập hoặc sửa đổi, bổ sung thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng teo quy định tại Điều 49 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, được hướng dẫn bởi Điều 17 và Điều 18 Nghị định 126/2014/NĐ-CP.
Như vậy, sau khi kết hôn, chị Lan vẫn có thể thay đổi nội dung của thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng đã được xác lập trước đó nếu nội dung sửa đổi đã được cả hai vợ chồng cùng thống nhất và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, chị Lan cần lưu ý rằng thỏa thuận sửa đổi này cũng phải được lập thành văn bản và thực hiện công chứng hoặc chứng thực thì mới phát sinh hiệu lực pháp lý.
Bài viết được đăng trên Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 08/06/2025.