Sau đó, nhiều lần bà L dẫn theo bà N.T.V.T. (trú Q.Hải Châu) chủ động tìm gặp và thuyết phục tôi, tôi đã đồng ý mua lô đất này với giá 2,57 tỷ đồng. Ngày 5-12-2022, bà L. dẫn theo bà T. đến nhà tôi làm hợp đồng đặt cọc và hai bà cùng ký nhận cọc của tôi 50.000.000 đồng. Một thời gian sau đó, bà L. và bà T. tiếp tục gặp và nói tôi đưa thêm 250.000.000 đồng, tôi đã đưa và bà L., bà T. cùng ký nhận, số tiền này, sau đó, bà L. giao lại số tiền đó cho bà T. để bà T. làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở (sổ đỏ) của lô đất nói trên. Sau khi có sổ đỏ, ngày 24-12-2022, vợ chồng tôi cùng bà L. và bà T. đến văn phòng công chứng (VPCC) để ký kết và công chứng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất (gọi tắt là HĐ). Với sự chứng kiến của công chứng viên, vợ chồng tôi đã thanh toán số tiền còn lại gồm tiền mặt 1,95 tỷ đồng và chuyển khoản 320.000.000 đồng sang tài khoản của bà T. Cả bà L. và bà T. đều ký nhận đủ số tiền này, đồng thời giao sổ đỏ cho tôi nắm giữ. Do khi ký kết HĐ xong là hết giờ làm việc sáng thứ 7 nên hai bên hẹn nhau sáng thứ 2 ngày 26-12-2022 đến lại VPCC để hoàn tất việc đóng dấu HĐ. Đúng hẹn, vợ chồng tôi cùng bà L. đến để cho công chứng viên đóng dấu vào HĐ. Lúc đó, bà L. yêu cầu kiểm tra lại HĐ, lợi dụng sơ hở, bà L. đã cầm bộ hồ sơ xé toàn bộ trang thứ 3 của các bản HĐ là trang có đầy đủ chữ ký của các bên. Quá bức xúc, tôi liền gọi mời Công an địa phương đến để chứng kiến và làm rõ sự việc này. Sau đó, chúng tôi yêu cầu bà L. ngay lập tức ký lại HĐ nhưng bà L. không đồng ý. Do vậy, vợ chồng tôi yêu cầu bà L. trả tiền lại cho vợ chồng tôi chứ không mua bán gì nữa thế nhưng bà L. cũng không chịu trả tiền mà còn nói rằng không nhận tiền của tôi mà bà T. mới là người nhận tiền của tôi. Do đó, muốn lấy lại tiền thì tìm bà T. mà đòi. Sau đó, tôi bàng hoàng vô cùng khi được biết ngày 11-1-2023, Chi cục thi hành án Q.Sơn Trà đã ban hành quyết định về việc tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch quyền sở hữu, sử dụng, thay đổi hiện trạng đối với lô đất trên của bà L. để đảm bảo thi hành án. Và hơn nữa, tôi còn được biết thông tin, vào thời điểm tháng 6-2019, bà L. đã bán lô đất trên cho bà T. thông qua Hợp đồng đặt cọc và Hợp đồng ủy quyền (lập vào ngày 25-6-2019). Từ đó đến nay, đã gần 3 tháng trôi qua, tôi liên tục yêu cầu bà L. và bà T. trả lại số tiền đã nhận của tôi nhưng các bà không chịu trả, liên tục đổ lỗi cho nhau, trắng trợn phủ nhận trách nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản của tôi, thậm chí còn thách thức tôi đưa vụ việc ra Công an và Tòa án để giải quyết. Vậy cho tôi hỏi: Bà L. và bà T. có chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không? Khi bị xử lý hình sự, bà L. và bà T. có liên đới chịu trách nhiệm đối với tôi trong trường hợp này không? Tôi cần làm gì để đảm bảo quyền lợi cho mình?
*Luật sư Ngô Văn Bình - Trưởng Chi nhánh Văn phòng Luật sư Phong & Partners tại Liên Chiểu trả lời:
1. Bà L. và bà T. có thể chịu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
“Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.
Qua toàn bộ thông tin chị Loan cung cấp, có thể thấy bà L. và bà T. đã câu kết với nhau ngay từ đầu để thực hiện các thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt của chị số tiền 2,57 tỷ đồng. Cụ thể là bà L. đã tiếp cận chị Loan, thuyết phục chị Loan mua đất; sau đó thực hiện hàng loạt các thủ tục phù hợp với quy định pháp luật để tạo niềm tin nơi chị Loan như ký hợp đồng đặt cọc, nhận tiền cọc, ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tại VPCC, giao sổ đỏ cho chị Loan giữ. Tuy nhiên, sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng và nhận đủ tiền chuyển nhượng, bà L. đã xé bỏ hợp đồng đã được công chứng và đẩy trách nhiệm cho bà T. Đồng thời, hành vi cấu kết nhau để lừa đảo còn thể hiện qua việc bà L. đã ký hợp đồng chuyển nhượng lô đất cho bà T. từ trước khi giao dịch với chị Loan, nhưng hai bà vẫn che giấu việc này để thuyết phục chị Loan chuyển nhượng chính lô đất đó. Sau khi đạt được mục đích (nhận đủ tiền chuyển nhượng), ngay lập tức bà L. hủy bỏ giao dịch với chị Loan (xé bỏ hợp đồng đã ký tại VPCC), phủ nhận trách nhiệm, đổ lỗi cho nhau và chiếm đoạt số tiền của chị Loan.
Hành vi của bà L. và bà T. có dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Với giá trị số tiền chiếm đoạt lên tới 2,57 tỷ đồng, bà L. và bà T. có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, về mặt thực tiễn, hành vi của bà L. và bà T. có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không còn căn cứ vào nhiều yếu tố khác do cơ quan điều tra xác định.
2. Khi bị xử lý hình sự, bà L. và bà T. phải liên đới chịu trách nhiệm đối với chị Loan
Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định:
“Điều 48. Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi
1. Người phạm tội phải trả lại tài sản đã chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.
2. Trong trường hợp phạm tội gây thiệt hại về tinh thần, Tòa án buộc người phạm tội phải bồi thường về vật chất, công khai xin lỗi người bị hại.”
Trường hợp hành vi của bà L. và bà T. được cơ quan thẩm quyền xác định là hành vi phạm tội thì theo quy định nêu trên, bà L. và bà T. bị buộc phải trả lại toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt và bồi thường thiệt hại vật chất cho chị Loan. Đồng thời, khi cơ quan thẩm quyền xác định bà L. và bà T. cùng thực hiện hành vi phạm tội hoặc có liên quan đến hành vi phạm tội, cùng gây thiệt hại thì bà L. và bà T. phải liên đới bồi thường cho chị Loan. Trách nhiệm bồi thường của từng người được xác định tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi thì họ phải bồi thường thiệt hại theo phần bằng nhau.
3. Chị Loan cần làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình?
Hành vi của bà L. và bà T. là hành vi vi phạm pháp luật, vì vậy chị nên thực hiện ngay các biện pháp pháp lý để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thứ nhất, chị Loan cần thu thập tài liệu, chứng cứ: chị cần thực hiện thu thập các thông tin, bằng chứng chứng minh hành vi phạm tội của bà L. và bà T. như: sổ đỏ của lô đất đó, các hợp đồng, văn bản hai bên đã ký, chứng từ chuyển tiền, xác nhận của VPCC về sự việc hai bên đã ký, điểm chỉ Hợp đồng chuyển nhượng tại VPCC, biên bản làm việc của cơ quan Công an về sự việc bà L. xé bỏ Hợp đồng, chứng cứ về việc bà L. đã chuyển nhượng lô đất cho bà T. trước khi giao dịch với chị Loan, người làm chứng, tin nhắn giữa các bên, ghi âm… Đồng thời, chị Loan cũng cần thu thập chứng cứ chứng minh thiệt hại về tài sản của mình: chứng cứ về chuyển khoản, giao nhận tiền mặt, tiền lãi ngân hàng…
Thứ hai, chị Loan có thể tố cáo sự việc ra cơ quan Công an: sau khi đã thu thập đầy đủ chứng cứ để chứng minh hành vi vi phạm, chị Loan có thể gửi đơn tố cáo, tố giác cho cơ quan Công an để yêu cầu điều tra xác minh, xử lý hành vi vi phạm pháp luật của bà L. và T.; hoặc chị Loan có thể khởi kiện ra Tòa án nhân dân có thẩm quyền để yêu cầu buộc bà L. và T. liên đới trả lại số tiền đã chiếm đoạt của chị và bồi thường các thiệt hại thực tế.
Chia sẻ của Luật sư Ngô Văn Bình trên Báo Công an thành phố Đà Nẵng ngày 03/4/2023