1.1 Thế nào là lừa đảo chiếm đoạt tài sản?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể khái niệm về “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tuy nhiên, căn cứ Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được hiểu là hành vi dùng thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp tài sản tin vào những thông tin giả và trao tài sản cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối này thường bao gồm việc đưa ra thông tin sai lệch, làm giả giấy tờ hoặc tạo dựng các tình huống không có thật để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị xử lý hình sự nếu có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Mức án phạt cho tội danh này rất đa dạng, từ cải tạo không giam giữ đến án tù chung thân, tùy thuộc vào mức độ thiệt hại và tính chất nguy hiểm của hành vi.
1.2 Các yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là gì?
Các yếu tố cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017) như sau:
Khách thể:
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác (của Nhà nước, của tổ chức hoặc của công dân). Cụ thể, xâm phạm quyền sở hữu tức là xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của chủ sở hữu tài sản đối với tài sản bị chiếm đoạt.
Đối tượng của Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được thể hiện dưới các dạng cụ thể như tiền, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
Chủ thể: Cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên và có năng lực trách nhiệm hình sự
Mặt chủ quan:
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra bao gồm: lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.
Tội phạm thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản với lỗi cố ý trực tiếp. Theo đó, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là gian dối và trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội. Người phạm tội ý thức được những hậu quả của hành vi đó là chiếm đoạt trái phép tài sản của người khác nhưng vẫn mong muốn hậu quả đó xảy ra. Mục đích chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Mục đích chiếm đoạt phải có trước khi người phạm tội có được tài sản từ nạn nhân. Thời điểm nảy sinh mục đích chiếm đoạt có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh, làm cơ sở để phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với một số tội xâm phạm sở hữu khác có hành vi khách quan gần giống với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Mặt khách quan:
Người phạm tội dùng các hành vi, thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Thủ đoạn gian dối có thể là cung cấp thông tin giả mạo, không đúng sự thật để làm cho nạn nhân tin tưởng và giao tài sản của mình cho người phạm tội. Thủ đoạn gian dối được thực hiện thông qua nhiều hình thức như lời nói, văn bản (thư từ, email), hành động, hình ảnh hoặc sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau và phải được thực hiện trước khi người phạm tội nhận được tài sản (chiếm hữu hoặc sở hữu tài sản đó).
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là tội phạm có cấu thành vật chất, tức là cấu thành tội phạm bắt buộc phải có hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả xảy ra và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đó. Theo đó, người phạm tội thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên mới đủ yếu tố cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Nếu tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng thì phải thuộc một trong các trường hợp sau: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; hoặc tài sản bị chiếm đoạt là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì người thực hiện hành vi nêu trên mới phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.
Đối với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội phạm hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản của nạn nhân. Tuy nhiên, trong những trường hợp người phạm tội có ý định chiếm đoạt tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn, mặc dù người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản vẫn bị coi là phạm tội chưa đạt hoặc chuẩn bị phạm tội.
Hành vi khách quan và hậu quả của tội phạm có mối quan hệ nhân quả chặt chẽ. Hậu quả thiệt hại về tài sản phải là hệ quả trực tiếp từ hành vi cố ý lừa dối với mục đích chiếm đoạt tài sản, khiến người bị hại tin tưởng mà tự nguyện giao tài sản của mình. Nếu thiệt hại tài sản xuất phát từ nguyên nhân khác, cần dựa trên các dấu hiệu khác để xác định liệu có dấu hiệu phạm tội hay không, từ đó áp dụng các quy định của pháp luật phù hợp.
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, (sửa đổi, bổ sung 2017), theo đó, loại tội phạm này sẽ bị xử lý theo các 4 khung hình phạt sau:
Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội sau nhưng chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
- Tội cướp tài sản (Điều 168)
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169)
- Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170)
- Tội cướp giật tài sản (Điều 171)
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172)
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 173)
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175)
- Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản (Điều 290)
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Như vậy, Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là một hành vi vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Tùy vào mức độ và tính chất của hành vi phạm tội, người phạm tội có thể phải đối mặt với các hình phạt từ cải tạo không giam giữ, phạt tù theo các khung hình phạt theo quy định nêu trên và có thể chịu thêm các hình phạt bổ sung khác.
Việc xử lý nghiêm minh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ nhằm trừng trị hành vi vi phạm mà còn có tác dụng răn đe, giáo dục, ngăn ngừa những hành vi tương tự trong tương lai, góp phần bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân và duy trì một xã hội tiến bộ, văn minh.
Mặc dù Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, tuy nhiên pháp luật Việt Nam không chỉ tập trung vào việc trừng trị mà còn tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội sửa chữa lỗi lầm khi cần thiết. Án treo là một biện pháp xử lý đặc biệt, vừa mang tính nhân đạo, vừa đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, cho phép người phạm tội được miễn thi hành án tù giam.
Điều 1 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP quy định: “Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, được Tòa án áp dụng đối với người phạm tội bị phạt tù không quá 03 năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, xét thấy không cần bắt họ phải chấp hành hình phạt tù”.
Tuy nhiên, để được xem xét cho hưởng án treo, người bị xử phạt tù do phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định. Theo đó, Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 được hướng dẫn tại Điều 2 Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/NQ- HĐTP quy định:
“Người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:
1. Bị xử phạt tù không quá 03 năm.
2. Có nhân thân tốt.
Được coi là có nhân thân tốt nếu ngoài lần phạm tội này, người phạm tội luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.
Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà thời gian được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật tính đến ngày phạm tội lần này đã quá 06 tháng, nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo.
3. Có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
4. Có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.
Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.
Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
5. Xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.”
Ngoài ra, để có thể được xem xét cho hưởng án treo, người phạm tội không thuộc các trường hợp không được hưởng án treo theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết 02/2018/ NQ-HĐTP được sửa đổi, bổ sung tại Khoản 2 Điều 1 Nghị quyết 01/2022/ NQ-HĐTP. Theo đó:
“Những trường hợp không cho hưởng án treo:
1. Người phạm tội là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tính chất chuyên nghiệp, lợi dụng chức vụ quyền hạn để trục lợi, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người thực hiện hành vi phạm tội bỏ trốn và đã bị các cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị truy nã.
3. Người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách; người đang được hưởng án treo bị xét xử về một tội phạm khác thực hiện trước khi được hưởng án treo.
4. Người phạm tội bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
5. Người phạm tội nhiều lần, trừ trường hợp người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
6. Người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, tái phạm nguy hiểm.”
Như vậy, trong trường hợp phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” mà người phạm tội bị xử phạt tù không quá 03 năm, có nhân thân tốt, có đủ các tình tiết giảm nhẹ, không thuộc các trường hợp không được hưởng án treo và Tòa án xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì người phạm tội có thể được xem xét cho hưởng án treo.
Xem thêm: Án treo và các điều kiện được hưởng án treo – Chia sẻ của Luật sư Trương Đức Trung (Văn phòng Luật sư Phong & Partners) trên Báo Công an Đà Nẵng.
4.1 Thế nào là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản?
Căn cứ Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được hiểu là hành vi mà người phạm tội lợi dụng sự tin tưởng của người khác để vay mượn, thuê hoặc nhận được tài sản. Sau khi đã có được tài sản đó một cách hợp pháp, người phạm tội sẽ sử dụng những thủ đoạn gian dối như: đưa ra những lời hứa hẹn không có thật, làm giả giấy tờ, hoặc cung cấp thông tin sai lệch để chiếm đoạt tài sản nạn nhân hoặc sử dụng tài sản đó và không có khả năng trả lại cho chủ sở hữu.
4.2 Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Giống nhau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều là các tội phạm xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác (của Nhà nước, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân). Khi thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội sử dụng hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Cả hai tội danh này đều xuất phát từ lỗi cố ý trực tiếp của người phạm tội, có ý thức rõ ràng rằng hành vi của mình là trái pháp luật và đều có hành vi "chiếm đoạt trái phép" tài sản của nạn nhân.
Khác nhau: Mặc dù thuộc cùng nhóm tội phạm và có nhiều điểm tương đồng, nhưng cũng tồn tại những khác biệt quan trọng. Để phân biệt hai loại tội phạm này, có thể dựa vào thời điểm nảy sinh mục đích chiếm đoạt. Đây là điểm khác biệt quan trọng nhất giữa Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản:
Ví dụ minh họa:
Bản án số 83/2023/HS-ST ngày 25-12-2023 của TAND tỉnh Long An
Ngày 24-8-2017, Trung tâm Hành chính công huyện Đ trả lại toàn bộ hồ sơ cho bị cáo N và yêu cầu bổ sung Bản trích lục bản đồ địa chính của 02 thửa đất trên. Tuy nhiên, bị cáo N không bổ sung thêm mà nảy sinh ra ý định chuyển nhượng 02 thửa đất này cho người khác. Bị cáo N đã bàn bạc với bị cáo Dương Quốc T làm “Hợp đồng ủy quyền” giả từ ông Đ qua cho bị cáo T để làm thủ tục hủy hợp đồng chuyển nhượng đã công chứng trước đó. Sau đó, bị cáo N và T thỏa thuậnchuyển nhượng 02 thửa đất số 81 và 90 cho ông Y1.
Cuối năm 2014, bị cáo Dương Quốc T có hỏi L “Có bằng khoán nào (tức là GCNQSDĐ) để đem cầm Ngân hàng kiếm tiền không”, L đã đưa cho T 01 bản phô tô của GCNQSDĐsố L056179 do ông Nguyễn Văn C đứng tên. L nói, sẽ làm giấy tờ giả rồi sang tên hợp pháp cho bị cáo T với chi phí là 45.000.000 đồng, bị cáo T biết giả nhưng vẫn đồng ý. L đã làm giả 01 Hợp đồng ủy quyền từ ông Nguyễn Văn C cho ông Nguyễn Văn N1 (Hợp đồng giả có chữ ký giả của Công chứng viên và giả con dấu đóng của Phòng Công chứng).
Bị cáo N cùng 02 người thanh niên khác đến VPCC Đức Huệ ký hợp đồng chuyển nhượng QSDĐ từ ông N1 sang cho bị cáo T. Sau đó, bị cáo T 02 lần thế chấp GCNQSDĐ này cho Ngân hàng, trả vốn và lãi đầy đủ. Bị cáo T tiếp tục thế chấp GCNQSDĐ này để vay tiền của V. […]
Bản án số 83/2024/HS-ST ngày 25/12/2023 của TAND tỉnh Long An tuyên bố: Bị cáo Dương Quốc T phạm các tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”; Bị cáo Đỗ Thị Tuyết N phạm các tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” và “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan tổ chức”.
Đối với trường hợp (1), ban đầu, bị cáo N có ý định bán 02 thửa đất số 81 và 90 cho ông Đ, đã thực hiện công chứng và nộp hồ sơ đăng ký biến động đất sang cho ông Đ đứng tên. Mục đích chiếm đoạt chỉ nảy sinh khi bị cáo N được ông Đ tin tưởng giao “Giấy hẹn trả kết quả” và nhận được hồ sơ yêu cầu bổ sung từ Trung tâm Hành chính công huyện Đ. Bị cáo N đã bàn bạc với bị cáo T để làm “Hợp đồng ủy quyền” giả của ông Đ nhằm hủy bỏ Hợp đồng chuyển nhượng đã được công chứng trước đó và thực hiện chuyển nhượng 02 thửa đất này cho người khác. Hành vi của bị cáo N và bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, hành vi chiếm đoạt được thực hiện sau khi đã có được tài sản một cách hợp pháp (được ông Đ giao giấy hẹn để nhận hồ sơ đất đai từ Trung tâm Hành chính công huyện Đ).
Đối với trường hợp (2), ngay từ ban đầu, Bị cáo T đã biết đây là giấy tờ giả những vẫn phối hợp với L để thực hiện công chứng, sang tên GCNQSDĐ của ông C sang tên mình. Sau đó, bị cáo T tiếp tục sử dụng giấy tờ giả này để cầm cố ngân hàng, vay mượn tiền của những người khác. Có thể thấy, mục đích chiếm đoạt đã nảy sinh ngay từ đầu, sau đó bị cáo mới thực hiện các hành vi, thủ đoạn gian dối khác nhằm thực hiện việc chiếm đoạt tài sản của các nạn nhân để có tiền tiêu xài. Hành vi của T trong lần phạm tội này cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Như vậy, để phân biệt tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” , việc xác định chính xác thời điểm nảy sinh mục đích chiếm đoạt là vô cùng quan trọng, quyết định đến việc định tội danh trong tình huống này.
Xem toàn bộ nội dung bản án: Bản án số 83/2023/HS-ST ngày 25-12-2023 của TAND tỉnh Long An
5.1 Thế nào là Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản?
Theo Điều 172 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), công nhiên chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản một cách công khai, tức là thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản trước sự chứng kiến của chủ sở hữu hoặc người có trách nhiệm quản lý tài sản mà không cần sử dụng vũ lực, đe dọa, hoặc bất kỳ thủ đoạn nào nhằm uy hiếp tinh thần của người quản lý tài sản. Hành vi này thường lợi dụng hoàn cảnh khách quan như lợi dụng sơ hở, thiên tai, hoả hoạn… khi mà chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản không thể bảo vệ tài sản của mình hoặc không thể ngăn cản hành vi chiếm đoạt của người phạm tội.
5.2 Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Giống nhau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản đều liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản trái phép cũng như xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp của người khác (của Nhà nước, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân).
Khác nhau:
Khác với Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần có thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản, Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản không sử dụng thủ đoạn gian dối, vũ lực hoặc đe dọa đối với chủ sở hữu tài sản hoặc người quản lý tài sản. Thay vào đó, hành vi chiếm đoạt được thực hiện công khai, ngay trước sự chứng kiến của nạn nhân mà người phạm tội không có ý định che giấu. Người phạm tội lợi dụng các hoàn cảnh sau:
Ví dụ minh họa:
Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 25-3-2024 của TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa về Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
Khi đến nhà người thân chơi, bị cáo Mạch Văn N thấy anh Lê Văn T đang để xe máy trong sân và cắm sẵn chìa khóa trên xe. Lúc này, anh Lê Văn T đang ở trong nhà uống nước, không ở gần tài sản nên bị cáo Mạch Văn N đã nói mượn xe của anh T và nổ máy đi. Anh T không cho nên đuổi theo nhưng không cản kịp. Bị cáo N đã mang xe của anh T đi cầm cố.
Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 25-3-2024 của TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa tuyên bố: Mạch Văn N phạm tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản”
Có thể thấy, trong trường hợp này, Mạch Văn N không sử dụng các thủ đoạn gian dối để anh T giao xe cho mình mà Mạch Văn N đã lợi dụng việc anh T đang ở xa xe máy, không thể ngăn cản hành vi của Mạch Văn N nên Mạch Văn N đã nổ máy xe và mang đi cầm cố. Hành vi chiếm đoạt tài sản ngang nhiên trước mặt chủ sở hữu bằng cách lợi dụng hoàn cảnh khách quan đủ yếu tố để cấu thành tội “Công nhiên chiếm đoạt tài sản” theo Điều 172 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xem toàn bộ nội dung bản án: Bản án số 13/2024/HS-ST ngày 25-3-2024 của TAND huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa
6.1 Thế nào là Tội lừa dối khách hàng?
Căn cứ Điều 198 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017), người nào trong việc mua, bán hàng hóa hoặc cung cấp dịch vụ mà cân, đong, đo, đếm, tính gian hàng hóa, dịch vụ hoặc dùng thủ đoạn gian dối khác hoặc dùng thủ đoạn gian dối như hợp thức hóa hồ sơ, chứng từ, nguồn gốc thủy sản khai thác trái phép để mua, bán nhằm thu lợi bất chính thì bị truy cứu trách nhiệm về Tội lừa dối khách hàng.
6.2 Phân biệt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khác và Tội lừa dối khách hàng
Giống nhau: Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và Tội lừa dối khách hàng đều liên quan đến hành vi lừa đảo, dùng thủ đoạn gian dối, nhưng có những điểm khác biệt quan trọng về cấu thành tội phạm.
Khác nhau:
Khách thể:
Đối tượng tác động:
Hành vi phạm tội:
Ví dụ minh họa:
Bản án số 390/2023/HS-ST ngày 08-12-2023 của TAND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai về tội “Lừa dối khách hàng”
Vào ngày 17/6/2023, trong quá trình mua bán phế liệu tại Công ty C1, Lê Đức T và Nguyễn Công Tuấn A đã dùng thủ đoạn gian dối nhằm tạo ra sai lệch trong việc tính toán trọng lượng khi cân hàng hóa để chiếm đoạt 5.630 kg sắt phế liệu của công ty K. Khi đang vận chuyển số phế liệu trên thì bị phát hiện bắt giữ cùng tang vật.
Bản án số 390/2024/HS-ST của TAND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai tuyên tối: Lê Đức T, Nguyễn Công Tuấn A phạm tội “Lừa dối khách hàng” theo quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung 2017).
Trong vụ án này, Lê Đức T và Nguyễn Công Tuấn A đã thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản. Ở đây, người phạm tội là chủ thể trong quan hệ mua bán hàng hóa, thực hiện hành vi cân, đo, đong, đếm, tính gian hàng hóa để tính sai lệch và thu lợi bất chính từ khách hàng từ đó xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của Nhà nước và ảnh hướng đến quyền lợi của khách hàng. Do đó, mặc dù thực hiện hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng trong trường hợp này, hành vi của Lê Đức T và Nguyễn Công Tuấn A đủ yếu tố cấu thành Tội lừa dối khách hàng”.
Xem toàn bộ nội dung bản án: Bản án số 390/2023/HS-ST ngày 08-12-2023 của TAND huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai
7.1. Đối với người bị khởi tố
Khi bị khởi tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, người bị khởi tố cần phải giữ bình tĩnh và phối hợp với cơ quan điều tra, bởi lẽ bất kỳ hành vi chống đối nào cũng có thể làm phức tạp thêm cho vụ án. Lời khai của người bị khởi tố là một trong những nguồn chứng cứ quan trọng, do đó việc phối hợp với cơ quan điều tra không đồng nghĩa với việc cung cấp thông tin, lời khai một cách tự phát, bởi lẽ lời khai có thể trở thành chứng cứ bất lợi sau này cho người bị khởi tố. Vì lẽ đó, sự hỗ trợ từ một Luật sư chuyên về hình sự ngay từ giai đoạn này, khi cơ quan điều tra tiến hành hỏi cung, lấy lời khai người bị buộc tội là vô cùng cần thiết.
Hiện nay, pháp luật hình sự cho phép Luật sư được tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn đầu của vụ án. Điều 74 BLTTHS quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can”. Để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, pháp luật hình sự đã có những quy định rõ ràng, chi tiết về những quyền mà người bị khởi tố được thực hiện cũng như những trách nhiệm của cơ quan chức năng trong quá trình xử lý tội phạm. Theo đó, Điều 3 Thông tư 46/2019/TT-BCA quy định:
“Khi tiếp nhận người bị bắt, giao Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp cho người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, Quyết định tạm giữ cho người bị tạm giữ, Quyết định khởi tố bị can cho bị can, người thực hiện lệnh, quyết định, tiếp nhận người bị bắt phải đọc, giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của họ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và ghi vào biên bản giao nhận. Trong biên bản phải ghi rõ ý kiến của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can về việc có nhờ người bào chữa hay không và đề nghị thông báo cho người đại diện, người thân thích để cơ quan có thẩm quyền thực hiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 có liên quan đến người đại diện hoặc người thân thích của họ.”
Như vậy, khi giao Quyết định khởi tố cho bị can, cán bộ được giao nhiệm vụ phải đọc, giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của bị can, đồng thời phải ghi rõ vào biên bản về ý kiến của họ về việc có nhờ luật sư bào chữa hay không. Đối với bị can đang bị tạm giam có đơn yêu cầu người bào chữa, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được đơn yêu cầu người bào chữa của người bị tạm giam, cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm chuyển đơn này cho người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của họ. Ngoài ra, trong trường hợp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam chưa có yêu cầu nhờ người bào chữa thì trong lần đầu tiên lấy lời khai người bị bắt, người bị tạm giữ, lần đầu tiên hỏi cung bị can, Điều tra viên hoặc Cán bộ điều tra phải hỏi rõ người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can có nhờ người bào chữa hay không và phải ghi ý kiến của họ vào biên bản, trường hợp họ không nhờ người bào chữa thì Điều tra viên, Cán bộ điều tra có trách nhiệm thông báo cho người đại diện hoặc người thân thích của họ.
Bên cạnh đó, để bảo đảm tối đa quyền lợi của người bị khởi tố, Điều 76 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 còn quy định về việc chỉ định người bào chữa, theo đó:
1. Trong các trường hợp sau đây nếu người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của họ không mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ:
a) Bị can, bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân, tử hình;
b) Người bị buộc tội có nhược điểm về thể chất mà không thể tự bào chữa; người có nhược điểm về tâm thần hoặc là người dưới 18 tuổi.
Khi bị khởi tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Luật sư không chỉ giúp người bị khởi tố hiểu rõ các quyền của mình mà còn đảm bảo tính hợp pháp của các quyết định khởi tố và tính khách quan, phù hợp của các chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được. Sự đồng hành của Luật sư trong các buổi Cơ quan điều tra lấy lời khai, hỏi cung sẽ giúp người bị khởi tố giữ được sự bình tĩnh và có những hướng khai báo đúng đắn, tránh tình trạng “tự mua dây buộc mình”. Với kinh nghiệm thực tiễn phong phú, Luật sư sẽ có những phương án bào chữa phù hợp với thân chủ nhằm giúp thân chủ giảm thiểu các rủi ro pháp lý và chuẩn bị tốt nhất những căn cứ, tài liệu và tình tiết để được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định pháp luật.
7.2. Đối với người thân
Khi người thân bị khởi tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, gia đình không chỉ đóng vai trò hỗ trợ tinh thần và còn là nguồn lực quan trọng giúp người bị khởi tố có cơ hội giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hoặc minh oan nếu bị oan sai. Trước tiên, gia đình cần phải chuẩn bị về mặt tâm lý, bởi lẽ xét xử hình sự bao giờ cũng gian nan và phức tạp vô cùng. Việc giữ vững tinh thần không chỉ giúp gia đình xử lý tình huống một cách bình tĩnh mà còn tạo chỗ dựa vững chắc cho người bị khởi tố trong suốt quá trình tố tụng.
Một bước quan trọng không thể thiếu để giúp đỡ người thân khi bị khởi tố về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản đó chính là mời một luật sư giỏi về hình sự. Luật sư giỏi hình sự là những chuyên gia pháp lý có kinh nghiệm trong việc bào chữa, tham gia các vụ án hình sự, do đó sự hỗ trợ pháp lý của những luật sư giỏi hình sự sẽ đóng một vai trò quan trọng trong giai đoạn tố tụng. Điều 75 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định:
“Điều 75. Lựa chọn người bào chữa
1. Người bào chữa do người bị buộc tội, người đại diện hoặc người thân thích của lựa chọn.
3. Trường hợp người đại diện hoặc người thân thích của người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam có đơn yêu cầu nhờ người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền có trách nhiệm thông báo ngay cho người bị bắt, người bị tạm giữ, người bị tạm giam để có ý kiến về việc nhờ người bào chữa.”
Theo đó, người thân thích của người bị buộc tội có thể tự mình tìm kiếm hoặc theo ý chí của người bị buộc tội tìm kiếm một Luật sư phù hợp để tham gia bào chữa trong vụ án. Bằng kỹ năng và nghiệp vụ của mình, Luật sư sẽ liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền đang phụ trách giải quyết để tiếp nhận hồ sơ, tài liệu có liên quan, từ đó có cơ hội để tìm hiểu vụ án và đánh giá được tình huống pháp lý mà thân chủ đang gặp phải.
Để Luật sư tham gia bào chữa trong vụ án hình sự, người thân của người bị buộc tội cần liên hệ đến cá nhân hoặc tổ chức hành nghề luật sư và yêu cầu cung cấp dịch vụ pháp lý cũng như yêu cầu Luật sư tham gia bào chữa cho người thân của mình. Sau khi tiếp nhận và chấp nhận các yêu cầu đó Luật sư sẽ thực hiện thủ tục đăng ký bào chữa tại Cơ quan tiến hành tố tụng. Tiếp theo, Cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền sẽ ra văn bản Thông báo người bào chữa tham gia tố tụng. Từ đó, Luật sư sẽ có đầy đủ các quyền của người bào chữa quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015. Trong giai đoạn khởi tố, Luật sư có quyền tham gia cùng người bị khởi tố trong những buổi Cơ quan điều tra hỏi cung, lấy lời khai, đối chất, từ đó góp phần ổn định tâm lý của người bị khởi tố, giúp người bị khởi tố có những hướng khai báo đúng đắn, thành thật để được hưởng khoan hồng. Đồng thời, Luật sư cũng có quyền tiếp cận, thu thập và đánh giá chứng cứ để xác định được tính hợp pháp, khách quan của chứng cứ, từ đó đảm bảo cho quá trình tố tụng diễn ra công bằng, minh bạch, tránh oan sai.
Xem thêm: Quyền của Luật sư trong vụ án hình sự - Chia sẻ của Luật sư Trương Đức Trung (Văn phòng Luật sư Phong & Partners) trên Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam.
Bên cạnh đó, người thân cần phải với phối hợp chặt chẽ với Luật sư trong suốt quá trình Luật sư đảm nhận vụ án. Đối với tội danh “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, vấn đề về tài sản và bồi thường rất quan trọng, bởi vì hậu quả chủ yếu là thiệt hại về tài sản, việc khắc phục hậu quả rất quan trọng. Do đó, người nhà cần phối hợp với Luật sư để thực hiện việc tự nguyện sửa chữa và bồi thường thiệt hại cho người bị hại để người bị buộc tội được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, người thân cũng cần phối hợp, cung cấp cho Luật sư các vấn đề về nhân thân của người bị buộc tội để Luật sư có cơ hội hiểu hơn về hoàn cảnh phạm tội, lý do phạm tội, từ đó có thêm căn cứ để bào chữa cho người bị khởi tố.
Trên đây là toàn bộ những vấn đề pháp lý liên quan đến Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền lợi cá nhân của người bị hại mà còn tác động tiêu cực đến sự ổn định của xã hội và cơ chế quản lý của Nhà nước. Việc nhận thức đúng và nắm rõ các quy định pháp luật liên quan đến tội danh này giúp mỗi cá nhân tự bảo vệ quyền lợi của mình, đồng thời thúc đẩy, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng, góp phần xây dựng một xã hội ổn định, văn minh, tiến bộ.
Nếu bạn hoặc người thân đang đối mặt với các vấn đề pháp lý liên quan đến Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, hãy liên hệ với Văn phòng Luật sư Phong & Partners để nhận sự hỗ trợ từ đội ngũ Luật sư chuyên nghiệp với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực hình sự. Chúng tôi cam kết cung cấp các dịch vụ pháp lý chất lượng, bảo vệ tối đa quyền lợi hợp pháp của khách hàng.