1. Rủi ro pháp lý của công ty là gì?
Theo Từ điển Oxford, định nghĩa “rủi ro” là “một nguy cơ hay khả năng gây nguy hiểm, thiệt hại, tổn thất hoặc các hậu quả tiêu cực khác”. Còn theo Từ điển Black’s Law giải nghĩa “rủi ro” là “sự mất mát, nguy hiểm hoặc khả năng gây tổn thất”. Dù theo nghĩa từ điển kinh tế học hay pháp lý, nhìn chung rủi ro được coi là sự bất trắc không mong đợi và gây ra hậu quả tiêu cực.
Từ định nghĩa về “rủi ro” đề cập trên, rủi ro pháp lý của công ty có thể hiểu là những nguy cơ hoặc khả năng có thể xảy ra đối với công ty và/hoặc người quản lý, điều hành công ty, gây thiệt hại về tài chính, uy tín hoặc quyền lợi cho cá nhân, tổ chức trong công ty hoặc thậm chí là phạt tù đối với người quản lý, điều hành công ty.
2. Nguyên nhân nào dẫn đến rủi ro pháp lý của công ty?
Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro pháp lý của công ty thường có phạm vi rất rộng, tuy nhiên chung quy lại thì rủi ro pháp lý xuất phát từ hai nguyên nhân chính là chủ quan và khách quan, những nguyên nhân này đều có khả năng gây ra những hệ lụy khó lường trước và không thể khoanh vùng hậu quả. Trong đó:
Rủi ro pháp lý do các nguyên nhân chủ quan: Phát sinh từ việc người quản lý, điều hành công ty không biết, thực hiện không đúng hoặc không thực hiện quy định của pháp luật trong hoạt động kinh doanh. Một số nguyên chủ quan thường hay gặp như sau:
Rủi ro pháp lý do các nguyên nhân khách quan: Phát sinh nằm ngoài ý chí của người quản lý, điều hành công ty, ví dụ như chính sách pháp luật thay đổi gây ra thiệt hại trực tiếp cho công ty, công nghệ mới ra đời làm triệt tiêu công nghệ hiện tại của công ty, sự cố gây thiệt hại cho công ty khi vướng vào các tranh chấp pháp lý, thiên tai, dịch bệnh, biến động xã hội…
3. Các loại rủi ro pháp lý thường gặp của công ty là gì?
Rủi ro pháp lý mà công ty đối mặt có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, phản ánh sự đa dạng và phức tạp trong hoạt động kinh doanh. Trong đó, các nhóm rủi ro chính bao gồm:
Rủi ro trong quan hệ với Nhà nước
Rủi ro bị xử lý hình sự: Trách nhiệm hình sự của công ty là một dạng trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý bất lợi mà công ty phải gánh chịu trước Nhà nước do công ty đó thực hiện hành vi phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với công ty không chỉ áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có thể áp dụng đối với hành vi của công ty nước ngoài phạm tội ở ngoài lãnh thổ Việt Nam khi hành vi đó xâm hại quyền, lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam hoặc xâm hại lợi ích của quốc gia hoặc được quy định là tội phạm trong điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Bên cạnh đó, Bộ luật Hình sự hiện hành còn quy định việc công ty phải chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân. Công ty và/hoặc người quản lý/điều hành/làm việc trong công ty vi phạm quy định cấm trong Bộ luật Hình sự có thể dẫn đến bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và chịu những hình phạt nghiêm trọng như cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân hay thậm chí tử hình; hình phạt bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, chịu sự quản chế, tước một số quyền công dân, tịch thu tài sản.
Trong đó, theo quy đinh của Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, công ty phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội như: Tội trốn thuế; tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ; tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động; tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan; tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp; tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản; tội huỷ hoại rừng; tội buôn lậu; tội sản xuất, buôn bán hàng cấm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả; tội gây ô nhiễm môi trường…. Ví dụ: Hành vi trốn thuế của công ty có thể cấu thành tội trốn thuế; buôn bán hàng giả sẽ dẫn đến tội buôn bán hàng giả; hoặc gây ô nhiễm môi trường có thể bị xử lý theo tội gây ô nhiễm môi trường…
Rủi ro bị xử phạt hành chính: Xử phạt hành chính là một trong những chế tài nghiêm khắc mà Nhà nước áp dụng khi công ty vi phạm pháp luật nhưng chưa đến mức cấu thành tội phạm được quy định của Bộ luật Hình sự. Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 quy định xử phạt hành chính là việc cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp xử phạt và khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm. Theo đó, khi công ty bị phát hiện hoạt động trong lĩnh vực cấm hay không tuân thủ các quy định của pháp luật thì cơ quan chức năng có quyền sẽ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính như phạt tiền, đình chỉ hoạt động kinh doanh hoặc thậm chí tước giấy phép kinh doanh. Sau khi bị xử lý vi phạm, công ty có thể gặp khó khăn trong việc xin giấy phép trở lại hoạt động. Các cơ quan quản lý có thẩm quyền có thể yêu cầu các điều kiện bổ sung hoặc giám sát chặt chẽ hơn trong quá trình hoạt động của công ty. Ngoài ra, công ty còn có thể phải đối mặt với những tổn thất về các chi phí phát sinh từ việc ngừng hoạt động kinh doanh. Các lĩnh vực thường bị vi phạm trong lĩnh vực hành chính như thuế, kế toán, lao động, bảo hiểm xã hội, an toàn thực phẩm, môi trường, phòng cháy chữa cháy...
Rủi ro pháp lý trong quan hệ với đối tác
Rủi ro này thường phát sinh từ quan hệ giữa công ty với khách hàng, nhà cung cấp hoặc các đối tác liên doanh, liên kết. Quan hệ giữa công ty với đối tác có thể là quan hệ hợp đồng, giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ, thi công xây dựng, tư vấn, chuyển nhượng, thuê/vay…. Rủi ro pháp lý từ quan hệ với đối tác có thể xảy ra xuyên suốt trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Sẽ vô cùng rủi ro nếu công ty ký kết hợp đồng với một đối tác theo phương thức “tay không bắt giặc”, không có sự quan tâm đúng mực đến các điều khoản của hợp đồng hay có tâm lý sợ làm phật lòng đối tác khi chào hợp đồng chặt chẽ; không dự liệu tất cả các tình huống có thể xảy trong quá trình thực hiện hợp đồng. Rủi ro pháp lý trong quan hệ với đối tác có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến tài sản, uy tín của công ty. Đối tác có thể mất lòng tin dẫn đến doanh thu sụt giảm và khó khăn trong việc khôi phục hoạt động kinh doanh.
Rủi ro pháp lý trong quan hệ nội bộ công ty
Thông thường rủi ro này thường xuất hiện khi xảy ra những mâu thuẫn, bất đồng giữa các cá nhân, tổ chức tại công ty trong quá trình thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức công ty. Các tranh chấp trong quan hệ nội bộ công ty thường là tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong công ty, tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau. Khi xảy ra sự bất đồng quan điểm trong nội bộ công ty, nếu không bàn bạc thương lượng được thì dễ dẫn đến tình trạng kiện cáo, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty bị đình truệ, gián đoạn làm ảnh hưởng đến năng suất và lợi nhuận của công ty. Thậm chí nhiều công ty đã thua lỗ, giải thể, phá sản vì những cuộc nội chiến tương tàn trong trong nội bộ công ty. Dưới đây là những tranh chấp nội bộ mà các công ty thường gặp phải trong quá trình hoạt động kinh doanh như:
4. Một số cách ứng xử với rủi ro pháp lý của công ty.
Có 04 cách thường được các công ty có hệ thống kiểm soát nội bộ sử dụng để ứng xử với rủ ro pháp lý như sau:
Né tránh rủi ro: Theo cách ứng xử này, công ty sẽ chủ trương thực hiện các hoạt động từ khi thành lập đến khi kết thúc theo hướng tuân thủ pháp luật như tránh thực hiện điều pháp luật cấm, đáp ứng các điều kiện quy định. Hay trong mối quan hệ với đối tác, công ty sẽ tôn trọng những quy định đã được các bên thỏa thuận, không thực hiện những điều mà các bên thỏa thuận không được làm, không đơn phương thực hiện các hành động mà có nguy cơ xảy ra các tranh chấp bất lợi cho mình. Ví dụ như trong tổ chức, quản lý và điều hành, công ty phải tuân thủ pháp luật về công ty; trong thuê mướn người lao động, công ty phải tuân thủ pháp luật về lao động; đối với nghĩa vụ về thuế, công ty phải tuân thủ pháp luật về thuế; trong sử dụng tài nguyên công ty phải tuân thủ pháp luật về đất đai, khoáng sản, điện lực, dầu khí, viễn thông…
Chấp nhận rủi ro: Đối với cách ứng xử này, có thể phân ra thành hai trường hợp là chấp nhận rủi ro chủ động và chấp nhận rủi ro thụ động. Chấp nhận rủi ro chủ động nghĩa là công ty chủ động thực hiện các bước đánh giá rủi ro, đo lường mức độ rủi ro, đưa ra phương án xử lý sự cố trước khi hành động. Chấp nhận rủi ro thụ động nghĩa là công ty chỉ nhận biết được rủi ro nhưng không đánh giá mức độ, không xây dựng phương án xử lý sự cố khi rủi ro xảy ra.
Chuyển giao rủi ro: Theo cách ứng xử này, công ty sẽ sử dụng dịch vụ pháp lý của đơn vị tư vấn pháp lý bên ngoài như Văn phòng luật/Công ty luật để chuyển giao rủi ro cho Văn phòng luật/Công ty luật. Việc chuyển giao rủi ro pháp lý sang Văn phòng luật/Công ty luật thường là giải pháp có hiệu quả cao, các Văn phòng luật/công ty luật thường đóng bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho các Luật sư của mình để phòng trong trường hợp việc cung cấp dịch vụ pháp lý gặp rủi ro, các công ty bảo hiểm sẽ là đơn vị chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho khách hàng.
Giảm thiểu rủi ro: Trong những trường hợp không chắc chắn về mức độ an toàn pháp lý trong các công việc, hoạt động của công ty thì công ty có thể hỏi trực tiếp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hoặc các đơn vị tư vấn về các nội dung còn chưa hiểu rõ hay pháp luật chưa quy định rõ ràng trước khi thực hiện giao dịch. Sau khi có được sự tư vấn, hướng dẫn chính thức, công ty có thể thực hiện giao dịch hoặc ý tưởng kinh doanh của mình.
5. Phương thức giải quyết khi công ty xảy ra rủi ro pháp lý.
Thứ nhất, xác định bối cảnh rủi ro pháp lý: Trước hết, công ty cần xác định bối cảnh xảy ra rủi ro pháp lý để dự tính, phân tích các trường hợp có thể xảy ra.
Thứ hai, phân tích, đánh giá rủi ro pháp lý đã xác định: Sau khi công ty đã xác định được rủi ro pháp lý, cần phải phân tích tầm ảnh hưởng cũng như hậu quả rủi ro pháp lý có thể xảy ra với công ty. Từ đó, tiến hành thiết lập các phương án có thể giải quyết hữu hiệu nhất.
Thứ ba, giải quyết rủi ro: Sau khi đã xác định được các mặt của rủi ro, công ty cần tiến hành giải quyết rủi ro. Dưới đây là các phương án giải quyết rủi ro mà công ty có thể tham khảo:
6. Làm thế nào để hạn chế các rủi ro pháp cho công ty?
Việc nhận diện các rủi ro pháp lý và lên kế hoạch quản trị, hạn chế rủi ro đối với công ty luôn là điều cần thiết mà bất cứ công ty nào cũng cần trang bị. Khi có trong tay những phương án hạn chế rủi ro giúp công ty chủ động hơn trong ứng phó với các tình huống gây tổn thất, giảm hậu quả rủi ro xuống mức thấp nhất và nâng cao hiệu quả hoạt động vững mạnh của công ty. Để hạn chế các rủi ro pháp cho công ty, các công ty cần lưu ý những điểm sau:
7. Những lợi ích khi sử dụng dịch vụ pháp lý để phòng ngừa rủi ro pháp lý cho công ty.
Hiện nay, phần lớn các chủ công ty chỉ nhờ đến sự hỗ trợ của Luật sư hay chuyên gia pháp lý khi phải đối diện với “vấn đề” liên quan đến pháp luật, đặc biệt là trong trường hợp có rủi ro, vướng mắc, tranh chấp hay kiện tụng. Tuy nhiên, đôi khi sự hỗ trợ của Luật sư hay chuyên gia pháp lý trong giai đoạn đã xảy ra vấn đề là quá muộn để có được các giải pháp trợ giúp pháp lý thực sự có hiệu quả. Thường ở giai đoạn này, rủi ro đã xảy ra và ít nhiều cũng gây tổn thất cho công ty. Do vậy, việc sử dụng dịch vụ pháp lý để phòng ngừa rủi ro pháp lý cho công ty ngay trong giai đoạn đầu là hết sức quan trọng và cấp thiết.
Dưới đây là những lợi ích khi sử dụng dịch vụ pháp lý để phòng ngừa rủi ro pháp lý cho công ty:
8. Một số vụ án điển hình khi công ty gặp phải rủi ro pháp lý.
8.1. Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh và các đối tượng liên quan bị xử lý hình sự về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Vào tháng 6/2021, Tập đoàn Tân Hoàng Minh có vay nợ lớn, các dự án chưa thể triển khai và thêm ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên "khó khăn về tài chính". Tập đoàn này có dư nợ tín dụng hơn 18.500 tỷ đồng. Chỉ 6 tháng sau, vào tháng 01/2022, Tân Hoàng Minh tăng dư nợ lên gần 20.000 tỷ đồng, chưa kể các khoản nợ đến từ 8 gói trái phiếu đã phát hành năm 2021.
Trước nhu cầu thanh toán nhiều khoản nợ và có tiền chi tiêu, ông Đỗ Anh Dũng - Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh đã chỉ đạo cấp dưới tại Tân Hoàng Minh triển khai phát hành các gói trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ nhằm huy động vốn. Theo đó, Tập đoàn Tân Hoàng Minh sẽ không trực tiếp đứng ra phát hành trái phiếu do có nhiều công ty con, không thể kiểm toán kịp thời. Thay vào đó, ba công ty con thuộc Tập đoàn sẽ tiến hành bán trái phiếu riêng lẻ gồm Công ty Ngôi Sao Việt, Công ty Soleil và Công ty Cung Điện Mùa Đông. Các công ty con này sau đó mở 9 đợt chào bán trái phiếu riêng lẻ, tổng trị giá hơn 10.000 tỷ đồng. Qua đây, ông Đỗ Anh Dũng và đồng phạm huy động được gần 14.000 tỷ đồng. Số tiền huy động được, ông Dũng và đồng phạm chi tiêu vào nhiều việc khác nhau, không đúng mục đích phát hành trái phiếu.
Liên quan vụ việc này, sau đó cơ quan có thẩm quyền đã khởi tố ông Đỗ Anh Dũng, ông Đỗ Hoàng Việt (con trai ông Dũng, cựu Phó tổng Giám đốc Tập đoàn Tân Hoàng Minh), ông Nguyễn Mạnh Hùng (cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty Ngôi Sao Việt)… và các bị can có liên quan. Qua các cấp toà xét xử, ông Đỗ Anh Dũng - Chủ tịch Tập đoàn Tân Hoàng Minh bị xử phạt 7 năm tù về tội ''Lừa đảo chiếm đoạt tài sản''. Các bị cáo thuộc cấp dưới của ông Đỗ Anh Dũng tại Tập đoàn Tân Hoàng Minh đều bị tuyên phạt từ 18 tháng tù đến 36 tháng tù với cùng tội danh trên. Về dân sự, ông Đỗ Anh Dũng phải bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt là 8.643 tỷ đồng cho các nhà đầu tư.
Link tham khảo:
https://vnexpress.net/chu-tich-tan-hoang-minh-duoc-giam-them-mot-nam-tu-4796881.html
8.2. Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam bị mất bản quyền nhãn hiệu Vinataba trên thị trường quốc tế
Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam đã từng hứng chịu những rủi ro pháp lý trong thương mại quốc tế khi bị công ty nước ngoài đăng ký mất bản quyền nhãn hiệu trên thị trường quốc tế. Cụ thể, nhãn hiệu Vinataba của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam tuy đã được đăng ký trong nước nhưng chưa đăng ký ở nước ngoài, khi tiến hành đăng ký ở nước ngoài thì phát hiện đã bị một công ty của Indonesia chiếm đoạt tại 13 quốc gia và vùng lãnh thổ. Điều này đã gây tác hại ngiêm trọng đến quyền lợi của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam. Sản phẩm Vinataba không thể xuất khẩu sang các nước đã bị đăng ký tước đoạt thương hiệu. Đồng thời, công ty tại những nước này có thể sản xuất Vinataba giả để đưa vào Việt Nam. Ngoài ra, những ảnh hưởng đến uy tín và thương hiệu của công ty và ngành thuốc là Việt Nam không phải là nhỏ. Tổng Công ty Thuốc lá đã thực hiện việc đòi lại nhãn hiệu của mình nhưng đến nay mới chính thức thành công trên một số nước như Campuchia, Lào…. Trong khi đó, việc khiếu kiện để đòi lại nhãn hiệu rất khó khăn và tốn kém.
Link tham khảo: https://vnexpress.net/cuoc-chien-thuong-hieu-voi-bai-hoc-cua-vinataba-2671918.html
8.3. Công ty Cổ phần Lilama 10 bị truy thu và phạt thuế do khai sai
Chi cục thuế khu vực I đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về thuế đối với Công ty Cổ phần Lilama 10. Theo quyết định xử phạt, căn cứ trên biên bản kiểm tra thuế ngày 20/3/2025 của Đoàn kiểm tra thuộc Chi cục thuế khu vực I đối lập với việc chấp hành Luật Thuế năm 2024, Lilama 10 đã thực hiện hành vi khai sai dẫn đến thiếu số tiền thuế phải trả hoặc tăng số tiền thuế được miễn, giảm, hoàn. Bên cạnh đó, công ty cũng khai sai, khai không đầy đủ các chỉ tiêu trong hồ sơ thuế liên quan đến xác định nghĩa vụ thuế nhưng không dẫn đến thiếu số thuế phải giảm hoặc tăng số thuế được miễn, giảm, hoàn. Với các vi phạm này, Lilama 10 bị áp dụng hình thức xử phạt chính với số tiền hơn 143,5 triệu đồng. Đồng thời, công ty thu thuế giá trị gia tăng (VAT) năm 2024 tăng thêm qua kiểm tra là hơn 26,1 triệu đồng và thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) năm 2024 tăng thêm hơn 659 triệu đồng. Tiền thuế VAT chậm được tính đến hết ngày 20/3/2025 là 941,020 đồng. Tổng số tiền truy thu, phạt và giảm nhẹ là hơn 829,6 triệu đồng.
Cơ quan thuế cũng yêu cầu Lilama 10 tự tính và số tiền chậm nộp thuế VAT phát sinh kể từ ngày 21/3/2025 cho đến ngày nộp đủ số tiền thuế chậm vào ngân sách Nhà nước. Đối với thuế TNDN, chưa hết thời hạn nộp thuế khai báo quyết toán năm 2024, công ty cũng được yêu cầu tự tính và tiền phụ tùng theo quy định. Ngoài các tài chính nhiệm vụ, Lilama 10 còn bị buộc phải điều chỉnh khai báo số liệu, sổ sách kế toán và các tài khoản liên quan để làm cơ sở cho kê khai, tất toán các kỳ sau. Trong văn bản công bố thông tin gửi Sở Giao dịch Chứng khoán TP.HCM (HoSE), Lilama 10 cho biết đã nhận được quyết định và đã tiến hành phụ trách các khoản tiền theo quyết định xử phạt của Chi cục thuế khu vực I.
Link tham khảo: https://nhadautu.vn/lilama-10-l10-bi-truy-thu-va-phat-thue-hon-829-trieu-dong-do-khai-sai-d94790.html
8.4. Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam xảy ra tranh chấp nội bộ gây gắt dẫn đến việc kiện tụng, tình hình hoạt động của công ty bị tê liệt
Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam (trụ sở chính tại Số 2D, Đường Thành, Phường Cửa Đông, Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội) được thành lập năm 2007. Năm 2009 và năm 2012, công ty thay đổi vốn điều lệ, thay đổi người đại diện theo pháp luật. Sau những lần thay đổi, Tập đoàn K&N Kenanga (Malaysia) trở thành cổ đông và sở hữu 49% cổ phần của Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam. Lúc này, Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty là ông Cao Văn Sơn. Trong quá trình hoạt động, nội bộ Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam xuất hiện nhiều rạn nứt, dẫn đến tình trạng bất đồng giữa nhóm cổ đông trong nước và đối tác Malaysia, cụ thể:
Trong quá trình điều hành Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam, ông Cao Văn Sơn đã cho các cá nhân, thành viên gia đình và các tổ chức vay tiền trái với điều lệ của công ty, từ đó gây thất thoát thua lỗ, đẩy Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam đến bờ vực phá sản. Ngày 25/3/2013, Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam đã tổ chức cuộc họp Hội đồng quản trị để thay đổi chức danh Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty. Sau đó, ông Wee Kim Hong - Tập đoàn K&N Kenanga được bổ nhiệm giữ chức Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm người đại diện theo pháp luật của Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam thay ông Cao Văn Sơn. Tuy nhiên, khi Hội đồng quản trị quyết định ông Wee Kim Hong làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, đồng thời kiêm người đại diện theo pháp luật, ông Cao Văn Sơn và một cổ đông khác đã rời cuộc họp mà không ký vào biên bản cuộc họp và nghị quyết của hội đồng quản trị. Vì sự việc trên mà hai bên liên tục xảy ra tranh chấp gây gắt trong một thời gian dài. Đến tháng 10/2017, đại diện của Tập đoàn K&N Kenanga đã có thư gửi đến Tổng cục cảnh sát – Bộ Công an, Phòng Cảnh sát hình sự Công An thành phố Hà Nội và Toà án. Theo đó, Tập đoàn K&N Kenanga đã tố cáo sự việc từ ngày 25/3/2013 đến nay, ông Cao Văn Sơn đã lợi dụng đối tác là tổ chức nước ngoài nên đã cố tình chiếm giữ con dấu, tài khoản, tài sản của Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam. Đồng thời, Tập đoàn K&N Kenanga cũng đã yêu cầu ông Cao Văn Sơn bàn giao ngay con dấu và các thủ tục khác cho ông Wee Kim Hong để ông Wee Kim Hong trực tiếp đều hành Công ty Chứng khoán Kenanga Việt Nam; yêu cầu ông Cao Văn Sơn ngừng tất cả hoạt động nhân danh Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam để tránh tiếp tục gây hại cho công ty.
Kể từ khi xảy ra tranh chấp nội bộ giữa nhóm cổ đông trong nước và nhóm cổ đông nước ngoài, Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam gần như rơi vào tình trạng ngưng trệ hoạt động. Mọi tranh chấp quanh chiếc ghế chủ tịch Công ty Cổ phần Chứng khoán Kenanga Việt Nam gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hoạt động của công ty, gây thiệt hại uy tín và tài sản cho các bên; môi trường đầu tư của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nhiều tai tiếng.
Link tham khảo: https://giaoduc.net.vn/hanh-trinh-5-nam-tuyet-vong-di-doi-con-dau-cua-doanh-nhan-malaysia-tren-dat-viet-post191183.gd
8.5. Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp giữa Công ty TNHH Trường Giang Cái Mép và Công ty TNHH Dịch vụ Thương Mại Đại Ngân Sơn
Năm 2011, Công ty TNHH Trường Giang Cái Mép (Công ty Trường Giang Cái Mép) được cơ quan chức năng cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản số BD707384 trên đất đối với 30.000m2 tại xã Tân Phước, huyện Tân Thành (nay là TX Phú Mỹ), tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tháng 12/2018, Công ty TNHH DVTM Đại Ngân Sơn (Công ty Đại Ngân Sơn) muốn mở rộng sản xuất nên đã thương lượng để Công ty Trường Giang Cái Mép chuyển nhượng lại toàn bộ phần vốn góp của các thành viên cho mình. Ngày 3/1/2019, hai công ty trên đã làm Hợp đồng chuyển nhượng góp vốn có nội dung Công ty Trường Giang Cái Mép chuyển toàn bộ phần vốn góp và tài sản liên quan, bao gồm quyền sử dụng 30.000m2 đất và quyền sở hữu tài sản trên đất tại Tân Phước, TX Phú Mỹ với giá chuyển nhượng là 46,134 tỷ đồng. Sau khi ký Hợp đồng, Công ty Đại Ngân Sơn chuyển vào tài khoản của bà P.D. (người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đại diện cho Công ty Trường Giang Cái Mép) 4.5 tỷ đồng. Tuy nhiên, sau đó Công ty Đại Ngân Sơn bất ngờ khởi kiện Công ty Trường Giang Cái Mép ra Toà án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu yêu cầu huỷ Hợp đồng chuyển nhượng nói trên với lập luận: (i) Hợp đồng này có hành vi lừa dối, người ký Hợp đồng là bà Nguyễn Thị Xuân Thảo không có thẩm quyền ký chuyển nhượng phần vốn góp; (ii) Số tiền chuyển nhượng vốn góp lớn hơn nhiều lần số vốn điều lệ (10 tỷ đồng) và giao dịch này nhằm che dấu hoạt động chuyển nhượng đất; (iii) Bản chất của hợp đồng nói trên là chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên phải ký hợp đồng công chứng. Do đó, Công ty Đại Ngân Sơn yêu cầu Toà án tuyên Hợp đồng góp vốn trên vô hiệu và các bên hoàn trả lại những gì đã giao, không phát sinh nghĩa vụ từ hợp đồng.
Trong quá trình xét xử, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cho rằng, Công Đại Ngân Sơn không đưa ra được chứng cứ nào cho thấy bị đối tác ép buộc nhận chuyển nhượng với giá cao hơn vốn điều lệ, việc thoả thuận về giá là tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội theo Điều 433 Bộ luật Dân sự. Đồng thời, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cũng cho rằng Hội đồng thành viên Công ty Trường Giang Cái Mép có biên bản họp và có uỷ quyền cho bà Thảo ký Hợp đồng nên việc này là đúng thẩm quyền. Hợp đồng giữa hai công ty là hợp đồng chuyển nhượng vốn góp, không phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nên không cần phải công chứng. Do vậy, Hợp đồng này đủ điều kiện có hiệu lực theo luật định. Việc Công ty Đại Ngân Sơn đơn phương chấm dứt Hợp đồng là do lỗi của Công ty Đại Ngân Sơn. Sau đó, TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử sơ thẩm bác các yêu cầu khởi kiện tuyên hợp đồng vô hiệu, bác yêu cầu đòi trả lại 4,5 tỷ đồng tiền đặt cọc của Công ty Đại Ngân Sơn và tuyên bố chấm dứt thực hiện hợp đồng giữa 2 công ty này.
Tuy nhiên, đến ngày 15/10/2020, ở phiên xử phúc thẩm, TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh viện dẫn Công ty Trường Giang Cái Mép thuê đất lại của Tổng Công ty Xây dựng Sài Gòn theo Hợp đồng số 20/2010/TCty-HĐTĐ ngày 20/10/2010, trong Hợp đồng có Điều 6.8 quy định: “Trong thời hạn thuê lại đất, Công ty Trường Giang Cái Mép không được phép chuyển giao hoặc cho thuê lại một phần hoặc toàn bộ khu đất thuê lại cho bất kỳ bên thứ ba nào khi không có sự đồng ý trước của Tổng Công ty Xây dựng Sài Gòn bằng văn bản”. Với lập luận trên, Công ty Xây dựng Sài Gòn không cho phép cho thuê lại nên tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp nói trên vô hiệu. Theo Công ty Trường Giang Cái Mép, bản án phúc thẩm của TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh cho rằng do Công ty cho thuê lại đất mà không có sự đồng thuận trước với Tổng Công ty Xây dựng Sài Gòn là vi phạm Hợp đồng thuê đất nên tuyên hợp đồng chuyển nhượng vốn góp vô hiệu là sai bản chất của vấn đề tranh chấp vì Hợp đồng chuyển nhượng góp vốn chỉ thay đổi cá nhân góp vốn để tiếp tục thực hiện dự án, chứ không phát sinh một pháp nhân thứ hai thay thế Công ty Trường Giang Cái Mép để cho thuê một phần hoặc toàn bộ khu đất. Cũng theo đại diện Công ty Trường Giang Cái Mép, Điều 6.7 của Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp quy định: “Công ty Đại Ngân Sơn được quyền chọn bất kỳ một pháp nhân hoặc cá nhân nào mà không cần sự đồng ý của Công ty Trường Giang Cái Mép để đứng tên trong giấy phép Công ty TNHH Trường Giang Cái Mép để giấy phép công ty vẫn giữ nguyên loại hình công ty TNHH từ hai thành viên trở lên”. Điều đó cũng chứng tỏ rằng bản thân Công ty Đại Ngân Sơn ngay từ khi ký kết hợp đồng cũng biết rõ rằng mình thay thế thành viên góp vốn để tiếp tục thực hiện dự án và khai thác giá trị lô đất, chứ Công ty Trường Giang Cái Mép không cho bất cứ công ty thứ ba nào khác thuê lại đất.
Liên quan tới vụ việc, Công ty Trường Giang Cái Mép có văn bản gửi Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đề nghị kháng nghị bản án phúc thẩm theo thủ tục Giám đốc thẩm vì Công ty này cho rằng TAND cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh áp dụng sai luật.
Link tham khảo: https://vtcnews.vn/tranh-chap-mua-ban-phan-von-gop-toa-xu-lai-sang-tranh-chap-hop-dong-thue-dat-ar575830.html